Tuesday, October 28, 2014

Hình ảnh các vị chính khách, tướng lãnh thời VNCH

Thủ Tướng Phan Khắc Sửu và Tướng Nguyễn Khánh
Thủ tướng Phan Khắc Sửu, Tướng Dương Văn Minh và Tướng Nguyễn Khánh

Dương Văn Minh, Nguyễn Khánh trao quyền lại cho Phan Khắc Sửu

Ngoại trưởng Trần Chánh Thành
Thủ tướng Trần Văn Hương và Tướng Richard E Stillwell

Tướng Nguyễn Đức Thắng


Tướng Tôn Thất Xứng, Tướng Nguyễn Cao Kỳ, Đại tá Jasper Wilson và Đại tá Nguyễn Chánh Thi


                                                                    Đại tá Lodge


                               Ứng cử viên Nguyễn Văn Thiệu vận động trang cử





                                                       Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Oánh




                                       Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và Tướng Đỗ Cao Trí


                                    Tướng Hoàng Xuân Liêm và Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu 




                                                    Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu thăm một làng nhỏ ở miền Trung

(Còn tiếp)
              
                          

Sunday, June 22, 2014

Hải Quân VNCH - lực lượng yểm trợ hùng mạnh


Hải Quân Việt Nam (HQVN) sinh trưởng vào đúng giai đoạn tinh thần dân tộc tự quyết trên toàn Thế giới nói chung và tại Việt Nam nói riêng đang lên cao, và bộ mặt thật cùng tham vọng bá quyền của CSBV đã hiện nguyên hình.

Năm 1950, một số thanh niên VN được tuyển mộ và gửi sang Pháp học ngắn hạn tại trường Sỹ quan HQ Brest. Nhưng không may, thời tiết miền Bắc nước Pháp năm đó lạnh đột ngột, khóa sinh VN không đủ thể lực để chịu đựng các khóa huấn luyện ngoài khơi, không có SVSQ nào tốt nghiệp.


Năm 1951, Dự án về Trung tâm  Huấn luyên Hải Quân (HLHQ) VN được khởi xướng. Năm 1952, 350 thanh niên ViN được HQ tuyển mộ. Phần lớn khóa sinh được thụ huấn tại VN, một số ít được dự trù gửi sang huấn luyện tại trường SQHQ Pháp tại Brest. Ngày 12 tháng 7 năm 1952, Trung tâm HLHQ Nha Trang bắt đầu khóa 1 Thủy thủ chuyên nghiệp gồm 150 khóa sinh và sau đó 25 khóa sinh ưu tú được lựa chọn để theo khóa 1 Hạ Sỹ quan. Khoảng tháng 10 năm 1952, việc xây dựng TTHL tạm xong. Ngày 01 tháng 11 năm 1952, TTHLHQ Nha Trang khai giảng khóa 2 SQHQ gồm 12 SVSQ ngành chỉ huy, 4SVSQ ngành cơ khí. Đến tháng 7 năm 1953 khai giảng khóa 3. Về phần huấn luyện Hạ Sỹ quan lúc đầu Hải Quân không mở thẳng những cuộc thi tuyển từ ứng viên dân chính. TTHLHQ Nha Trang được ủy thác quyền chọn lựa các thủy thủ học viên xuất sắc nhất để tạo thành các HSQ chuyên nghiệp. Cho tới năm 1953 VN vẫn chưa có tàu, các tân sỹ quan và thủy thủ VN tập sự trên các chiến hạm của Pháp.


Sau nhiều khó khăn, cuối cùng HQVN cũng được chính thức ra đời vào ngày 10 tháng 4 năm 1953. Hải Quân lúc đó rất nhỏ nhoi, quân số chỉ chiếm vào khoảng 1/2 của 1% quân lực, tình trạng không những yếu ớt mà còn bị xé lẻ. Ngày 11 tháng 2 năm 1953 đánh dấu một ngày quan trọng khi Thủ tướng Bửu Lộc tháp tùng bởi Bộ trưởng Quốc phòng Phan Huy Quát của VN và Bộ tưởng Quốc phòng Pleven của Pháp đến chủ tọa buổi lễ tại bờ sông Sài Gòn thì Quốc kỳ màu vàng ba sọc đỏ được kéo lên trên 3 chiến hạm M655 Aubepine, M656 Belladone và M657 Digitale. Số tàu và tên tàu sau đó được đổi sang HQ111 Hàm Tử, HQ112 Chương Dương, HQ113 Bạch Đằng. Hình ảnh này được trình bày trên tờ báo Documents VN No 70 ngày 1 er Mars 1954 phát hành tại Pháp.

Trong những năm đầu mới thành lập, các Sỹ quan HQVN chỉ mới tốt nghiệp từ quân trường. Vì cấp bậc còn quá thấp, Sỹ quan HQVN không đủ thâm niên để nắm giữ bất cứ một chức vụ quan trọng nào.Khoảng cuối năm 1955, khi HQ Pháp bắt đầu chuyển giao quyền chỉ huy các đơn vị thuộc Giang lực của VN, quân số HQVN rất khiêm tốn. Vào năm 1956, nếu không kể đến Hạm đội Pháp tại Viễn Đông, HQ Đại tá Recher là SQ thâm niên hiện diện tại HQ Pháp trên bờ. Ông đảm nhiệm hai chức vụ Phụ tá HQ cho Tổng Tham mưu trưởng và quyền chỉ huy HQVN. Ngày 1 tháng 7 năm 1955, Thủ tướng Ngô Đình Diệm bổ nhiệm Thiếu tướng Trần Văn Đôn vào chức vụ Trưởng ban HQVN thay thế Đại tá Recher. Vào ngày 20 tháng 8 năm 1955 Thủ tướng Ngô Đình Diệm chính thức bổ nhiệm HQ Thiếu tá Lê Quang Mỹ vào chức vụ Trưởng ban HQ cạnh Tổng TMT Quân đội QGVN (thay Tướng Đôn) để chỉ huy HQ và TQLC. Ngày 23 tháng 10 năm 1955 trong cuộc trưng cầu dân ý truất phế Bảo Đại, và bầu ông Ngô Đình Diệm làm Quốc trưởng, 98% cử tri tán thành. Tân Quốc trưởng Ngô Đình Diệm tuyên bố Hiến ước tạm thời tại Dinh Độc Lập ngày 26 tháng 10 năm 1955: Việt Nam là nước Cộng Hòa, Quốc trưởng lấy danh hiệu là Tổng thống VNCH. HQVN danh xưng mới là Hải Quân VNCH.



Năm 1956 đánh dấu sự chấm dứt lệ thuộc nước Pháp, lực lượng HQ Pháp tại Viễn Đông chính thức giải tán vào ngày 26 tháng 4 năm 1956. Trong khi hai chính phủ Pháp và VN đang đối đầu về chính trị, với tư cách Tư lệnh HQ một quốc gia độc lập, HQ Thiếu tá Lê Quang Mỹ ký ngay lệnh bổ nhiệm các SQ HQVN nắm lấy hết quyền chỉ huy của SQ Pháp trên chiến hạm cũng như tại mọi đơn vị khác kể cả TQLC. Trong năm 1964, HQ VNCH đã tổ chức các cuộc hành quân ra ngoài Bắc vỹ tuyến 17. Các cảm tử quân Biệt Hải đã lập được nhiều chiến tích qua một số cuộc đọt kích xâm nhập vào khu vực Duyên Hải miền Bắc có căn cứ của CSBV. Ngày 3/8/1964 một toán đặc nhiệm Biệt Hải đã tấn công bằng pháo vào đài radar chính của CS tại mũi Vinh Sơn, phía nam thị xã Vinh. Năm 1965 CSBV gia tăng các cuộc tấn công vào miền Nam Việt Nam. Chúng lén lút đưa người và vũ khí xâm nhập miền Nam bằng đường biển. Ngày 19 tháng 2 năm 1965 HQ VNCH đã đánh chìm một tàu của CSBV tại Vũng Rô, tịch thu nhiều chiến lợi phẩm. Tình hình chiến sự ngày càng leo thang bằng các cuộc xâm nhập của CSBV trên khắp 4 vùng chiến thuật. Quân đội chính thức đứng ra lãnh đạo Quốc gia vào ngày 19 tháng 6 năm 1955 và từ đây Quân đội quy định rõ ràng 3 quân chủng: Hải - Lục - Không Quân. Đại tướng Cao Văn Viên tạm thời kiêm nhiệm chức vụ Tư lệnh HQVN trong hai tháng 8 và 9 năm 1966.

Ozzie Nguyen
(bài viết được tổng hợp và phân tích từ nhiều nguồn)

Thursday, June 19, 2014

Trả lại sự thật và danh dự cho người lính miền Nam, Vinh danh Ngày Quân lực


(Tiếp theo và hết)

Nhưng thực sự mảnh đất miền Nam Việt Nam chưa bao giờ được bình yên. Suốt 2 năm đảo chánh liên miên, Quân đội chỉ kịp làm yên lòng dân, chỉ kịp kiện toàn lực lượng và lại bước vào cuộc chiến mới - cuộc chiến giữ gìn mảnh đất Tư do trước cuộc xâm lăng của CSBV. Trong cuộc chiến đấu sống còn đó lý tưởng và danh dự của Người lính càng được sáng tỏ trong niềm hãnh diện chung của quân và dân miền Nam. CSBV với chiêu bài "giải phóng" đã đưa cả miền Nam vào biển máu, chúng xem những người Việt Quốc gia yêu nước là kẻ thù và không tiếc lời, giấy mực bôi nhọ chiến sỹ Quốc gia: nào là lính đánh thuê, nào là Ngụy; chúng miệt thị lính VNCH là hèn nhát, cướp của, giết người. Hai mươi năm, để thực hiện mưu đồ chính trị của CSQT , xâm lăng bằng mọi giá mảnh đất miền Nam, CSBV đã đem xương máu của cả triệu đồng bào miền Bắc ra phục vụ chúng, trong khi chiến sỹ VNCH cho đến phút sau cùng họ đã anh dũng chiến đấu, bảo vệ giang sơn còn lại của Tổ quốc, không bao giờ hèn với giặc, chưa từng ác với dân, không sang nhượng một tấc đất quê hương cho giặc ngoại bang, làm tròn trách nhiệm dưới Lá cờ Tổ quốc thiêng liêng.

Miền Nam huy hoàng tươi đẹp từng được bạn bè khu vực ngưỡng mộ, một Quân lực hùng mạnh đứng hàng thứ 5 Thế giới bỗng chốc sụp đổ chỉ vì quyền lợi của những cường quốc và tham vọng thỏa hiệp trên bàn cờ Quốc tế. Đồng minh bỏ mặc họ bằng Hiệp định Paris 1973 ngưng tiếp tế vũ khí, quân sự và sức lực khiến họ mất niềm tin chiến đấu, tạo điều kiện thuận lợi cho CSBV cưỡng chiếm miền Nam. Đau đơn đấy, uất hận đấy mà họ vẫn ngoan cường chiến đấu trong đơn độc với kẻ thù mạnh và đông đảo hơn vạn lần, vũ khí tối tân hơn vạn lần. Họ, phải chính họ bị xoay vần trong cơn bão CS điên cuồng và khát máu. Họ thất trận không phải vì thua kém mà vì không có cơ hội  để chiến đấu. Chấp nhận cái thế của kẻ bại trận để bảo vệ đến cùng người dân của mình, họ tiếp tục bị bôi nhọ không thương tiếc bởi bàn tay, bởi ngòi bút của những kẻ ngụy trí thức. Nào là một quân đội tồi tệ tham nhũng, tướng tá trụy lạc quân nhân vô kỷ luật, hèn nhát, hà hiếp dân, cướp của dân. Chúng đưa hình ảnh của người lính VNCH dìm xuống tận bùn đen mà không cho họ có cơ hội được giải thích. Bộ mặt hiền từ thánh thiện của kẻ "chiến thắng" dần dần lộ ra là những kẻ tiểu nhân, khát máu. Thế giới đã từng tin vào luận điệu của CSVN thì nay sửng sốt. Hình ảnh "trại cải tao", nơi CS dùng để trả thù người lính VNCH, mọc lên khắp nơi từ Bắc vào Nam không còn xa lạ trên báo đài quốc tế. Cả miền Nam đau thương nếm mùi giải phóng để rồi hàng triệu người phải bỏ nước ra đi tìm lại hai chữ "tự do" mong manh và một phần ba trong số ấy đã nằm lại trong lòng biển cả. Hàng ngàn thương binh què cụt mang trên mình nhiều thương tích đang điều trị tại các quân y viện trong ngày Sài Gòn bị cưỡng chiếm đã bị CS đẩy ra đường để nhường chỗ cho thương binh của chúng. Bao nhiêu nghĩa trang quân đội bị CS tàn phá, lăng nhục.

Những người lính VNCH suốt những năm tháng chiến đấu dưới lá cờ đại nghĩa chỉ biết cầm súng giữ trọn lời thề với nước với dân, chứ không quen cầm bút viết lịch sử để ca tụng chính bản thân mình. Thế nên một ngày có được tiếng cảm ơn hay trả về họ danh dự thì đó cũng chỉ là sự bừng tỉnh của thế giới khi đã biết được toàn bộ sự thật và ý nghĩa của cuộc chiến mà cả mảnh đất miền Nam phải bán mạng để bảo vệ. Dưới chế độ CS đầy bạo tàn và tận tuyệt, con người mất hết nhân tính, những hậu phương năm nào đã từng thần thánh, ca tụng thậm chí giúp sức chúng đã muộn màng nhận ra và tưởng nhớ hào khí của người lính VNCH.


Tướng Westmoreland đã có lời xin lổi cựu quân nhân QLVNCH
“Chúng ta không thua tại Việt Nam, nhưng chúng ta đã không giữ đúng lời cam kết đối với Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.”
“Thay mặt cho quân đội Hoa Kỳ, tôi xin lỗi các bạn cựu quân nhân của Quân Lực Miền Nam Việt Nam vì chúng tôi đã bỏ rơi các bạn.”

(On behalf of the United States Armed Forces, I would like to apologize to the veterans of the South Vietnamese Armed Forces for abandoning you guys.)

Đài tưởng niệm các chiến sỹ đã hy sinh trong cuộc chiến Việt Nam mọc lên khắp nơi, hình ảnh người lính VNCH đã chiến đấu cho tự do cũng được vinh danh trang trọng trong các ngày kỷ niệm đặc biệt là ngày Quân lực hàng năm trên toàn thế giới. Rất nhiều trí thức mới, tác giả đã dần nhận thức đúng đắn hình ảnh người lính mà họ vẫn yêu thương gọi là "bé nhỏ", "nhưng có tấm lòng dũng cảm bao la, lý tưởng cao cả vì dân vì nước". Trên tiêu đề Heroic Allies tạp chí Việt Nam tháng 8 năm 1964 tác giả Hary F.Noyes đã viết: "Thật đau lòng khi có nhiều cựu binh Mỹ tham chiến tại Việt Nam lại đi cấu kết với đám phản chiến, với những tên trốn dịch và bọn chính khách hoạt đầu, xúm nhau vào bôi nhọ một quân lực không có một cơ hội để tự bào chữa. Nhục mạ một quân đội bị phả bội vì chính đồng minh của mình, hành động đó thật đê tiện, bất xứng." Hơn 250.000 chiến sỹ VNCH đã bỏ mình trong cuộc chiến, họ đã vì dân vì nước mà hy sinh thân mình. Anh linh của họ cùng hồn thiêng sông núi sẽ luôn yểm trở cho thế hệ đấu tranh mới vững vàng chiến đấu. Lịch sử đã chứng minh sức mạnh không chỉ nằm ở vũ khí, quân sự mà nằm ở lòng người cùng chí hướng.

Xưa người lính băng mình trong khói lửa để bảo quốc an dân thì nay những người lính già còn lại sau cuộc chiến và hậu duệ của họ vẫn kiên tâm bền bỉ đấu tranh cho một nền tự do đúng nghĩa mà họ hằng mong muốn. Trong ngày Quân lực 19/6 này xin nghiêng mình trước các anh những người lính VNCH đã hy sinh vì đại nghĩa dân tộc Việt, xin chân thành biết ơn đồng bào khắp mọi nẻo đường viễn xứ đã và đang hướng về họ, NGƯỜI LÍNH BẤT DIỆT. Hồn thiêng của họ đã quyện trong hồn thiêng của Đất nước Việt Nam. Xin cảm ơn và tri ân các anh, những người lính già luôn một lòng hướng về Tổ quốc, chưa một lần quên lời thề 6 chữ vàng: TÔ QUỐC-DANH DỰ-TRÁCH NHIỆM. Và trân trọng tri ân các bà quả phụ, cô nhi và thương binh VNCH còn  kẹt lại nơi quê nhà. Kính chúc tất cả sức khỏe trong ngày kỷ niệm này




HA
(bài viết được tổng hợp và phân tích từ nhiều nguồn tài liệu khác nhau)

Wednesday, June 18, 2014

Lịch sử ra đời Ngày Quân lực



Quân lực VNCH chính thức ra đời vào những ngày cuối năm 1954 sau ngày Hiệp định Geneve được ký kết giữa Pháp và CSVN. Các quân binh chủng lúc này lần lượt được Pháp chuyển về cho Việt Nam đồng thời các cơ sở hành chính, cảnh sát, công an, tư pháp đồng loạt được trả cho Việt Nam và từ đó ngay 26/10 hàng năm thời Đệ Nhất Cộng Hòa được chọn là ngày Quốc khánh.

Ngay sau đó các Bộ Tổng tham mưu hỗn hợp Pháp-Việt được cải tổ và cải danh thành Bộ Tổng tham mưu Quân lực VNCH, các Bộ Tư lệnh Quân khu đổi thành Bộ Tư lệnh Quân đoàn. Đến đầu năm 1958 các đơn vị Sư đoàn Khinh chiến, Dã chiến được đổi thành các Sư đoàn Bộ Binh, các Lữ đoàn TQLC, Liên đoàn Nhảy dù cũng bành trướng thành các Sư đoàn Tổng Trừ bị vào cuối năm 1965, các Đại đội Biệt Động Quân được thành lập thành Tiểu đoàn rồi Liên đoàn và Sư đoàn; các chiến hạm Hải Quân do Quân đội Pháp để lại được thay thế bằng những chiến hạm tân tiến, thành lập các Bộ Tư lệnh Hải Quân vùng; Sư đoàn Không Quân ra đời được trang bị các Phản lực cơ siêu âm với các Phi đoàn. Với sự lớn mạnh từng ngày Quân lực VNCH xứng đáng là một quân lực tinh nhuệ và hùng hậu đứng vào hàng thứ 5 trên thế giới.

Và rồi những cơn bão chính trị đã dần cuốn Quân lực VNCH vào vòng xoáy mạnh mẽ của nó. Ngày 1 tháng 11 năm 1963, Trung tướng Dương Văn Minh cùng số đông các tướng lãnh và các cấp chỉ huy các đơn vị xung quanh Sài Gòn đã lật đổ chế độ của Tống thống Ngô Đình Diệm, hình thành chính phủ của Đốc Phủ sứ Nguyễn Ngọc Thơ (Phó tổng thống của Tổng thống Ngô Đình Diệm). Tuy nhiên thật không may, chính phủ của Thủ tướng Nguyễn Ngọc Thơ lại là một chính phủ bè phái với những âm mưu lật đổ mới và gây chia rẽ. Nhưng những âm mưu đó chỉ đang trong giai đoạn thai nghén đã bị Trung tướng Trần Thiện Khiêm Tư lệnh Quân đoàn 3 cùng Trung tướng Nguyễn Khánh Tư lệnh Quân đoàn 1, Đại tá Nguyễn Chánh Thi Tư lệnh phó Quân đoàn 1 dùng ưu thế quân đội dập tắt. Ngày 31 tháng 1 năm 1964 Chính phủ của Thủ tướng Nguyễn Ngọc Thơ bị lật đổ hoàn toàn, toàn bộ tướng lãnh chủ mưu bị bắt. Dân chúng lúc này thực sự hoài nghi về nên chính trị tại Sài Gòn, thủ đô miền Nam Việt Nam.

Ngày 13 tháng 9 năm 1964 Đảng Đại Việt đảo chánh do Đại tá Huỳnh Văn Tốn Tư lệnh Sư đoàn 7 Bộ Binh và Trung tướng Dương Văn Đức Tư lệnh Quân đoàn 4 chủ mưu. Tướng Nguyễn Văn Thiệu lúc đó đang làm  Tham Mưu trưởng liên quân tại Bộ Tổng tham mưu không có quân trong tay đã phải cầu cứu Thiếu tướng Nguyễn Chánh Thi Tư lệnh Sư đoàn 1 Bộ Binh về Sài Gòn dẹp đảo chánh. Cuộc phản công thành công dễ dàng. Đến ngày 19 tháng 2 năm 1965, Thiếu tướng Lâm Văn Phát và Đại tá Phạm Ngọc Thảo lại diễn thêm một màn kịch đảo chính tại Sài Gòn nhưng cũng lại bị dẹp tan dưới tay của Thiếu tướng Nguyễn Chánh Thi. Với tư cách là Tư lệnh Quân đoàn Giải phóng Thủ đô, Thiếu tướng Nguyễn Chánh Thi đã yêu cầu Quốc trưởng Phan Khắc Sửu miễn nhiệm Tướng Nguyễn Khánh, ép tướng Khánh xuất ngoại với lý do trị bệnh, giao lại chức vụ Tổng Tham mưu trưởng Quân lực VNCH cho Trung tướng Trần Văn Minh.

Ngày 25 tháng 2 năm 1965, sau một năm khuấy đảo nên chính trị tại Đô thành Sài Gòn, Tướng Nguyễn Khánh lên đường lưu vong. Cùng ngày Thủ tướng Phan Huy Quát thành lập chính phủ mới. Nhưng sau 4 tháng cầm quyền đầy rối loạn, chính phủ chính thức trao quyền điều hành Quốc gia cho Quân đội. Ngày 6 tháng 6 năm 1965 Hội đồng Quân lực nhóm họp khẩn cấp do toàn bộ các Tướng lãnh Việt Nam điều khiển và sẵn sàng tiếp nhận vai trò lãnh đạo đất nước, điều khiển Quốc gia với Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu Tham mưu trưởng Liên Quân làm Chủ tịch Ủy ban Lãnh đạo Quốc Gia (Quốc trưởng), Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ Tư lệnh Không Quân làm Chủ tịch Ủy ban Hành pháp Trung Ương (Thủ tưởng) và lấy ngày 19/6 hàng năm là ngày Quân lực cùng bản Quốc ca nổi tiếng hào hùng.

Năm 1966 là năm đầu tiên lấy ngày 19 tháng 6 là ngày Quân lực với một cuộc diễu binh rất quy mô mang lại niềm tin mãnh liệt ở sức mạnh của Quân đội cho dân chúng, làm ăn lòng dân sau những năm tháng chính trị bất ổn.

(Còn tiếp)
HA
(thông tin được phân tích và tổng hợp từ nhiều nguồn tài liệu)

Thursday, May 8, 2014

Đại tá Ngô Thế Linh, chiến sỹ tình báo thầm lặng của QLVNCH

Đại tá Ngô Thế Linh sinh ngày 6 tháng 12 năm 1928 tại làng Thổ Hoàng, quận Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh thuộc miền Bắc Việt Nam. Trong những năm tháng đầu tiên tham gia chống cộng ở miền Bắc (1946 - 1949) ông đã cùng Linh mục Cao Văn Luận chống lại những ảnh hưởng của Việt Minh. Năm 21 tuổi, bị Việt Minh lùng bắt ráo riết ông đã trốn vào Nam. Năm 1953 ông tốt nghiệp Sinh viên Sỹ Quan Khóa 3 Thủ Đức, với cấp bậc Thiếu úy ông về công tác tại Bộ chỉ huy Quân khu 2 Huế và bắt đầu sự nghiệp sỹ quan tình báo.

Cả cuộc đời của ông gắn liền với cuộc đấu tranh đánh phá CSBV phục vụ nền Tự do và Dân chủ cho Việt Nam Cộng Hòa. Cuối năm 1956, Nha Tổng Nghiêm Huấn Bộ Quốc Phòng giải tán. Vào đầu năm 1957, sau khi ổn định chính quyền, Tổng thống Ngô Đình Diệm vinh thăng cấp bậc Thiếu tá cho Đại Úy Lê Quang Tung thuộc Sở An Ninh Quân Đội, gửi đi tu nghiệp nước ngoài. Trở về nước năm 1958, Thiếu tá Lê Quang Tung được vinh thăng Đại tá và được Tổng thống bổ nhiệm làm Giám đốc Sở Liên lạc trực thuộc Phủ Tổng thống. Cũng trong thời gian này, sau khi chỉ huy nhiều công tác ra Bắc, được sự tín nhiệm của Tổng thống Diệm, Cố vấn Nhu, ông William Colby và Đại tá Lê Quang Tung, Đại Úy Ngô Thế Linh được giao phó nhiệm vụ Trưởng Phòng 45 (Phòng E). Đầu năm 1959, qua sắc lệnh của Tổng thống Ngô Đình Diệm, Đại úy Ngô Thế Linh thành lập Sở Bắc (từ Phòng 45) và cũng là vị Chỉ huy trưởng duy nhất của Sở. Sở Bắc là một tổ chức tối mật trực thuộc Sở Liên lạc, Phủ Tổng thống, trực tiếp báo cáo cho Tổng thống và rất ít các cố vấn An Ninh Quốc Gia. Sở Bắc hoạt động và điều hành các điệp vụ Bắc tiến và ở Lào với sự yểm trợ của Trung ương Tình báo Hoa Kỳ (CIA) tại Sài Gòn. Sau chính biến 1963 Sở Bắc và Đại úy Ngô Thế Linh vẫn tiếp tục hoạt động như trước với Trung ương Tình báo Hoa Kỳ với sự chấp nhận của các tướng lãnh Quân lực VNCH. Trong suốt thời gian từ ngày thành lập (1959) đến hết ngày 1 tháng 1 năm 1963 rất ít người biết đến Sở Bắc. Với chức vụ Chỉ huy trưởng Sở Bắc, Đại úy Ngô Thế Linh tuyển chọn, chỉ huy và điều hành những nhân viên tình nguyện ưu tú cho những điệp vụ nguy hiểm và tối mật ra Bắc. Ông đã thành lập và chỉ huy lực lượng Biệt Hải. Toán Biệt Hải đầu tiên gồm các quân nhân ưu tú của Quân lực VNCH đa số thuộc Liên đoàn 77 và Hải Quân. Từ năm 1961 đến năm 1963, Sở Bắc và Đại úy Ngô Thế Linh đã thực hiện trên 40 Toán Biệt kích và Gián điệp trường kỳ ở Bắc Việt qua đường biển, đường bộ và đường hàng không.

Kể từ năm 1964, Sở Bắc được tách rời khỏi Bộ Tư lệnh LLĐB và trở thành Sở Kỹ thuật trực thuộc Bộ TTM Quân lực VNCH do Đại tá Trần Văn Hổ làm Giám đốc, Thiếu tá Ngô Thế Linh được bổ nhiệm ra Đà Nẵng để thành lập Sở Phòng vệ Duyên Hải và là vị Chỉ huy trưởng đầu tiên của Sở này. Sở Phòng vệ Duyên Hải đồn trú dọc bờ biển Đà Nẵng từ Non Nước, xuống đến Sơn Trà và bãi biển Tiên Sa. Đến giữa năm 1965, Thiếu tá Ngô Thế Linh đã bàn giao chức vụ Chỉ huy trưởng Sở Phòng vệ Duyên Hải qua cho Hải Quân Trung tá Hồ Văn Kỳ Thoại và từ đó Sở được đặt dưới quyền điều động của Bộ Tư lệnh Hải Quân VNCH. Sau khi được vinh thăng Trung tá, ông được bổ nhiệm chức vụ Phó Giám đốc Nha Kỹ thuật. Trong cương vị này, Trung tá Ngô Thế Linh đã tổ chức và điều hành thêm hai đoàn công tác đặc biệt:

+ Đoàn 68: sử dụng hàng binh và hồi chánh viên CSBV trong việc thu thập tin tức các đơn vị CSBV tại Lào và Campuchia, hoặc lừa địch để tạo sự nghi ngờ và xáo trộn hàng ngũ CSBV.

+ Đoàn 11: hoạt động ngắn hạn từ bắc vĩ tuyến 17 lên Vinh, Lào, Campuchia nhằm phá hoại giao thông, binh trạm của CS dọc đường mòn Hồ Chí Minh và thu thập tin tức về cuộc xâm nhập của CSBV vào miền Nam Việt Nam.

Ông điều khiển các hoạt động chiến tranh tâm lý tại miền Bắc Việt Nam bằng đài phát thanh Tiếng Nói Tự Do, Gươm Thiêng Ái Quốc, Mẹ Việt Nam trong công tác tuyên truyền. Sau Tết Mậu Thân 1968, những công tác oanh tạc tạm ngưng nhưng CSBV vẫn tiếp tục xâm nhập miền Nam Việt Nam. Với chức vụ Phó GĐ Nha Kỹ thuật, vào năm 1970, Đại tá Ngô Thế Linh thành lập và kiêm chức vụ Chỉ huy trưởng Sở công tác Nha Kỹ thuật với trên 1500 chiến sĩ ưu tú của LLĐB. Sau năm 1972, ông về giữ chức Chỉ huy trưởng Trung tâm huấn luyện Biệt Kích Yên Thế ở Long Thành. Ông giữ cấp bậc Đại tá trên 7 năm và là một vị chỉ huy trưởng âm thầm bí mật, chiến đấu không vì bằng khen hay huy chương mà cho một lý tưởng cao quý hơn - phục vụ Tổ quốc để bảo vệ Tự do và Dân chủ cho VNCH.

23 năm binh nghiệp, phục vụ cho nền Dân chủ VNCH, Đại tá Ngô Thế Linh là một nhân vật chính yếu của guồng máy tình báo của miền Nam Việt Nam. Ông đã chỉ huy nhiều cơ sở bí mật, chiến đấu trong những trận chiến bí mật tiêu diệt những cơ sở chiến lược của CSBV. Đại tá Ngô Thế Linh đã được Tổ quốc ghi ân với 53 Huy chương, Bảo Quốc Huân Chương, Lục Quân Huân Chương, Tham Mưu Bội Tinh, trên 10 Anh Dũng Bội Tinh với Nhành Dương Liễu... và còn nhiều huy chương cao quý khác của Quân lực VNCH.

Ông Ngô Xuân Hùng, con trai Đại tá tâm sự: "Cha tôi đã nhận những vinh dự trong im lặng không kèn trống, cũng như chấp nhận những thất vọng không một lời phàn nàn, vì lòng tin của Người sắt đá và với tinh thần chống cộng bất diệt. Có lần ông đã nói với các chiến hữu rằng là một người chỉ huy chiến đấu cho lý tưởng tự do mà phải bỏ súng đầu hàng trong khi CS lan tràn tiến tới là một sự tủi nhục. Cho dù có những lý do chính đáng, chúng ta không thể nào tự đề cao những chiến thắng hay là sự hy sinh dũng cảm của chúng ta". Đại tá Ngô Thế Linh là người trầm lặng, trung thực, anh dũng, biết hy sinh. Ông đã giữ trong lòng tất cả những bí mật của cuộc chiến mà ông là nhân vật chính yếu. Với lòng ái quốc ông đã cùng sát cánh với các chiến hữu đấu tranh cho lý tưởng tự do dân chủ.

Người viết vô cùng cảm ơn tư liệu quý báu của con trai Đại tá Ngô Thế Linh, ông Ngô Xuân Hùng và các chiến hữu của Đại tá, nhờ đó người viết có cơ hội tóm lược và phân tích để lưu giữ lại cho đời sau những sự thật về người anh hùng bí mật của LLĐB.

Ozzie Nguyen
(bài viết được tổng hợp và phân tích từ nhiều nguồn tài liệu)


Wednesday, May 7, 2014

Nha Kỹ Thuật, những chiến công thầm lặng

Vào đầu năm 1963, Sở khai thác Địa hình được chuyển thành Bộ Tư lệnh LLĐB với 2 đơn vị chiến đấu nòng cốt là Liên đoàn 77 và Liên đoàn 31 với Tư lệnh đầu tiên là Đại tá Lê Quang Tung. Sau chính biến năm 1963 Đại tá Lê Quang Tung bị sát hại, LLĐB dời về Nha Trang. Và trong khoảng thời gian này Sở Bắc được đổi tên thành Sở Khai thác BTTM, duy trì công tác đặc biệt, tách rời khỏi LLĐB, với vị chỉ huy trưởng đầu tiên là Đại tá Trần Văn Hổ. Cùng lúc này, Bộ Tư lệnh Viện trợ Quân sự Hoa Kỳ tại Việt Nam (MACV - Millitary Assistance Command Vietnam) thay thế cho MAAG (Millitary Assistance and Advisory Group, tức Bộ Quân Viện và Cố vấn) của Hoa Kỳ, được thành lập.

Đại tá Lê Quang Tung,
Tư lệnh đầu tiên LLĐB
Do nhu cầu cấp bách của chiến trường, Sở Khai Thác được chỉ thị huấn luyện các Toán Thám Sát Đặc Biệt mệnh danh là Shinning Brass tại Trung tâm huấn luyện Long Thành, sau này là Trung tâm huấn luyện Quyết Thắng. Trong khoảng thời gian này Sở Liên lạc BTTM được thành lập để đảm trách công tác ngoại biên Việt - Miên và Việt - Lào. Đây là các toán Lôi Hổ có nhiệm vụ thám sát, phá hủy các mục tiêu trọng yếu của CS. Chỉ huy trưởng đầu tiên là Đại tá Hồ Tiêu. Sở Liên lạc (Biệt kích Lôi Hổ) gồm một BCH và 3 Chiến đoàn tại Sài Gòn, 3 chiến đoàn khác đồn trú tại các khu vực khác. Những chiến đoàn biệt kích gồm: Chiến đoàn 1 tại Đà Nẵng, Chiến đoàn 2 tại Kon Tum, Chiến đoàn 3 tại Ban Mê Thuột.

Khoảng năm 1965 - 1966, Sở Khai thác BTTM được đổi tên là Sở Kỹ thuật và không lâu sau được nâng thành Nha Kỹ thuật BTTM. Nha Kỹ thuật lúc này gồm các đơn vị trọng yếu như: Sở Liên lạc với Đoàn 11 và Đoàn 68, Sở Không yểm, Sở Phòng vệ Duyên Hải, TTHL Quyết Thắng, Sở Tâm lý chiến.

Kể từ năm 1972 cho tới sau này địa bàn hoạt động của các Toán thuộc Nha Kỹ thuật được thu hẹp lại cho phù hợp nhu cầu chiến trường. Vị chỉ huy trưởng đầu tiên của Sở công tác là Đại tá Ngô Thế Linh, nguyên PGĐ Nha Kỹ thuật BTTM. Nói đến công tác đặc biệt của Nha Kỹ thuật không thể không nói tới công tác hải-vận. Đây là công tác đưa đón quân nhân Biệt Hải của Nha Kỹ thuật được giao cho Sở Phòng vệ Duyên Hải. Sở Phòng vệ Duyên Hải được chính thức hoạt động khoảng cuối năm 1964 đầu năm 1965.

Một bộ phận hoạt động quan trọng trong Nha kỹ thuật là Sở Tâm lý chiến, đơn vị này hoạt động không thuần túy tham mưu. Sở sử dụng đa số các chuyên viên dân sự để điều khiển hệ thống phát thanh và công tác chiến tranh chính trị nhằm yểm trợ cho hoạt động đặc biệt tại miền Bắc. Sở có trách nhiệm điều khiển hai hệ thống phát thanh. Đài Tiếng Nói Tự Do là một hệ thống phát thanh "xám", tiếng nói của người yêu chuộng tự do chống đối hệ thống tư tưởng CS. Và một hệ thống phát thanh bí mật khác là đài "Gươm Thiêng Ái Quốc", tiếng nói của Mặt Trận Giải phóng Miền Bắc, nhằm hỗ trợ các công tác của toán đặc biệt trong lãnh thổ miền Bắc. Ngoài ra, Sở Tâm Lý Chiến Nha Kỹ Thuật đã thực hiện nhiều công tác ly gián, lừa địch, sử dụng hồi chánh viên và tù binh chính quy Bắc Việt. Phần lớn các hoạt động tâm lý chiến và phát thanh đều được cơ quan tình báo Hoa Kỳ tài trợ và cố vấn kỹ thuật. Sau này đài "Gươm Thiêng Ái Quốc" chấm dứt hoạt động do tình hình chiến sự và chính trị thay đổi. Đài "Mẹ Việt Nam" được nối tiếp duy trì công tác phát thanh của Nha Kỹ Thuật. Từ năm 1964 đến năm 1968 rất nhiều hoạt động đặc biệt nhằm vào miền Bắc được thực hiện. Sau Tết Mậu Thân 1968 và sau Hiệp định Paris hoạt động trên lãnh thổ miền Bắc giảm dần và gia tăng tại các vùng giáp tuyến và biên giới Việt - Lào, Việt - Miên. Đại tá Đoàn Văn Nu được Đại tướng Tổng Tham mưu trưởng bổ nhiệm làm Giám đốc thay thế Đại tá Trần Văn Hổ từ tháng 8 năm 1968 cho tới ngày cuối cùng của Nha kỹ thuật.

Các Toán hành quân của Nha Kỹ thuật, dù thuộc đơn vị nào cũng luôn chứng tỏ tinh thần dũng cảm quên mình, xem cái chết nhẹ tựa lông hồng, vượt mọi hiểm nguy hoàn thành nhiệm vụ cho đến những phút sau cùng của cuộc chiến.

Ozzie Nguyen
(bài viết được tổng hợp và phân tích từ nhiều nguồn tài liệu khác nhau)

Tuesday, May 6, 2014

Lực lượng đặc biệt, những bóng ma biên giới


Huy hiệu biệt đoàn Lôi Hổ

Trong những năm 1959, 1960 CSBV bành trướng gia tăng các hoạt động phá hoại, khủng bố trên khắp các vùng đất của miền Nam Việt Nam. Trong bối cảnh đó Quân đội Hoa Kỳ gửi thêm 30 Huấn luyện viên Lực lượng đặc biệt (LLĐB) từ căn cứ Fort Bragg sang Việt Nam để tổ chức một chương trình huấn luyện cho Quân lực VNCH. Chính quyền Hoa Kỳ rất lo ngại về vấn đề xâm nhập người và vũ khí của quân CS vào miền Nam Việt Nam. Lúc này Liên đoàn 5 LLĐB Hoa Kỳ được gửi sang Việt Nam và hoàn toàn chịu trách nhiệm cho các hoạt động hành quân đặc biệt tại miền Nam.

Cơ cấu tổ chức của LLĐB gồm Bộ chỉ huy Trung tâm, ban chỉ huy các đại đội, một đại đội truyền tin và một phi đoàn yểm trợ. Đại đội LLĐB thường do một sỹ quan cấp bậc trung tá chỉ huy, gồm một Ban tham mưu và một Bộ chỉ huy Hành quân C, để chỉ huy 3 Bộ chỉ huy hành quân B, mỗi BCH hành quân B sẽ chỉ huy 4 toán A. Toán A là một đơn vị 12 người nòng cốt của LLĐB.

Lôi Hổ lên đường cho chuyến công tác Hạ Lào
Tháng 9 năm 1962, BCH LLĐB tại Việt Nam được thành lập và trực thuộc BCH Quân viện (MAAG). Tháng 11 năm 1962, LLĐB Hoa Kỳ tại Việt Nam được tổ chức gồm có một BCH hành quân C, 3 BCH hành quân B và 26 Toán A, một BCH đặt tại Sài Gòn. Từ tháng 12 năm 1962 đến tháng 12 năm 1963, BCH LLĐB Hoa Kỳ chịu trách nhiệm chỉ huy các hoạt động của Toán A tại Việt Nam. Lúc này các Toán A đã thành lập các trại Dân sự chiến đấu (DSCĐ) trên 4 vùng chiến thuật. Một BCH hành quân B đã thành lập để phối hợp yểm trợ các Toán A. Tháng 12 năm 1963 các Toán A phối hợp với LLĐB Việt Nam huấn luyện và võ trang cho 18000 thuộc lực lượng xung kích và 43000 người phòng vệ dân sự. Tháng 2 năm 1963 BCH LLĐB Hoa Kỳ từ Sài Gòn dời đi Nha Trang để dễ dàng điều hành Toán A và nhận tiếp liệu từ Okinawa.

Từ năm 1965, CSBV thay đổi chiến thuật từ du kích sang trận địa chiến, liên tục mở các cuộc tấn công vào miền Nam Việt Nam. Các hoạt động của LLĐB được chia thành 3 loại:

+ Thiết lập thêm trại DSCĐ để ngăn ngừa mức độ chuyển quân và tiếp vận của CSBV
+ Mở các cuộc hành quân ngoại lệ như Hành quân Delta trong vùng 1 chiến thuật, Hành quân Sigma ở vùng 3 chiến thuật
+ Các cuộc hành quân phối hợp với đơn vị bạn



Bộ chỉ huy LLĐB gồm:

+ Bộ chỉ huy Sở Bắc (CCN): được thành lập vào ngày 1 tháng 10 năm 1967 tại Đà Nẵng vớ 3 BCH tiền phương 1 tại Phú Bài, BCH tiền phương 3 tại Khe Sanh và BCH tiền phương 4 tại Non Nước, Liên đoàn 5 LLĐB  Hoa Kỳ và ban cố vấn Hải Quân. Các cuộc hành quân vượt biên do BCH Sở Bắc tổ chức nhằm phá hủy đường dây xâm nhập người và tiếp vận của CSBV.

+ Bộ chỉ huy Sở Trung (CCC): đóng tại Kon Tum gồm Liên đoàn 5 LLĐB Hoa Kỳ chịu trách nhiệm tam giác Lào - Miên - Việt nhằm phá hủy các căn cứ, kho tiếp vận của CSBV, đặc biệt là vùng Đông bắc Campuchia. Trong BCH Sở Trung có 30 toán thám sát mỗi toán gồm 3 quân nhân LLĐB Hoa Kỳ và 9 quân nhân Việt Nam. Ngoài ra có có 4 đại đội khai thác, sử dụng tin tức do các toán thám sát cung cấp trong các cuộc hành quân lùng và diệt.

+ Bộ chỉ huy Sở Nam (CCS): được thành lập vào tháng 11 năm 1967 đồn trú tại Ban Mê Thuột. BCH này nhỏ nhất trong các BCH của Liên đoàn Nghiên cứu, Quan sát (MACV-SOG). Khu vực hoạt động chính: đồng bằng sông Cửu Long và Campuchia. Đơn vị gồm một số toán thám sát và 4 đại đội khai thác. Do địa thế vùng đồng bằng, các đại đội khai thác thường sử dụng xuồng bay trong các cuộc hành quân tiếp ứng. Sự tham chiến của quân đội Hoa Kỳ trong đơn vị này chấm dứt vào tháng 1 năm 1973, tất cả các đơn vị Hoa Kỳ trở về nước.



Binh chủng LLĐB là một binh chung huyền thoại trong Quân sử Quân lực VNCH nhưng lại rất ít người biết tới họ vì đặc tính của LLĐB là BÍ MẬT. Nhiều đơn vị mang cái tên rất lạ như Lôi Hổ, Thám Sát, Sở Công Tác, Liên Lạc, Biệt Kích... Quân nhân của binh chủng này là những chiến sỹ can trường được tuyển chọn và huấn luyện gắt gao, với tư chất gan lỳ, can đảm họ luôn là nỗi khiếp sợ của CSBV tại mặt trận biên giới. Trong cuộc chiến đấu cho miền Nam tự do họ đã để lại nhiều xương máu, chiến đấu ngoan cường với những chiến công thầm lặng.

Bài viết có thể chưa đầy đủ về họ vì nguồn tài liệu thu thập được vô cùng ít ỏi nhưng người viết cũng mong để lại ít nhiều trong lòng người đọc về họ, người lính đặc biệt trong cuộc chiến thầm lặng

Ozzie Nguyen
(bài viết được thu thập và phân tích từ nhiều nguồn tài liệu khác nhau)


Thursday, May 1, 2014

Những trận đánh nổi tiếng của Binh chủng Biệt Động Quân


Chưa một binh chủng nào của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa khiến tôi ấn tượng và phải suy nghĩ tìm tòi nhiều như Binh chủng Biệt Động Quân của những người anh hùng Mũ Nâu. Họ là những người lính gan dạ nhất, chịu nhiều thiệt thòi mất mát nhất, gồng gánh trách nhiệm nhiều nhất, ở lại cho đến phút sau cùng của cuộc chiến và chịu nhiều đọa đầy nhất. Suốt những ngày tháng lục tìm tài liệu về họ tôi càng hiểu sâu hơn khi sự thật về họ, về những người hùng vô danh, về những vị Chỉ huy Trưởng hầu như không có hoặc không còn. Bởi vậy ngày hôm nay, với những nguồn tài liệu ít ỏi, tôi chỉ có thể tổng hợp và phân tích một chút về họ. Nhưng dù ít hay nhiều họ đã làm nên một trang sử hào hùng của Quân lực VNCH.

Kể từ ngày thành lập Binh chủng Biệt Động Quân (BĐQ) đã tham gia nhiều trận đánh nổi tiếng:

1. Trận Bình Giã: sáng 28 tháng 12 năm 1964 một tiểu đoàn Việt Cộng tấn công làng Bình Giã, một vị trí chiến lược cách Sài Gòn 67km về phía Tây. Được tin báo, Bộ Tư lệnh Quân đoàn 2 đổ quân Tiểu đoàn 3 BĐQ xuống để phản công nhưng lại bị Việt Cộng phục kích. Sáng 30 tháng 12 năm 1964, Tiểu đoàn 4 TQLC được đưa đến để tiếp viện và lấy lại được Bình Giã

2. Trận Đồng Xoài: Ngày 9 tháng 6 năm 1965, Việt Cộng tung hai Trung đoàn 762, 763 tấn công Đồng Xoài, Phước Long. Ngày 10 tháng 6 năm 1965, Quân lực VNCH đưa một Tiểu đoàn Bộ Binh và Tiểu đoàn 52 BĐQ (Sấm Sét Miền Đông) vào trận địa. Được Không lực yểm trợ, Tiểu đoàn 52 tấn công như vũ bão đánh tan Việt Cộng.

Thêm chú thích
3. Trận Tết Mậu Thân 1968: Lợi dụng dịp Tết Việt Cộng bất ngờ mở một loạt cuộc tấn công vào các thành phố trên toàn lãnh thổ miền Nam Việt Nam. Tất cả các đơn vị BĐQ trên 4 vùng chiến thuật được điều động để đối phó và đánh đuổi Việt Cộng. Mẫu Thân 1968 là khoảng thời gian cao điểm nhất trên toàn chiến trường với các trận đánh quyết liệt để giữ vững lãnh thổ miền Nam Việt Nam.

4. Hành quân vượt biên qua Campuchia 1970: Trừ Liên đoàn 1 BĐQ nằm ngoài vùng 1 Chiến thuật, các Liên đoàn 2, 3, 4, 5 và 6 đều tham gia hành quân phá hủy các căn cứ tiếp liệu, hậu cần của Việt Cộng.

5. Hành quân Lam Sơn 719 năm 1971: cuộc hành quân diễn ra đầu tháng 2 năm 1971 nhằm phá hủy các căn cứ địa 604 của CSBV. Liên đoàn 1 BĐQ là đơn vị trừ bị cho Quân đoàn 1 nên tham gia hành quân. Liên đoàn 1 gồm 3 tiểu đoàn tham gia là Tiểu đoàn 37 BĐQ, Tiểu đoàn 21 và Tiểu đoàn 39.

6. Mùa hè đỏ lửa 1972: cuối tháng 3 năm 1972 ngoài vùng địa đầu giới tuyến CSBV sử dụng 5 Sư đoàn chính quy: 304, 308, 312, 324 và 325 mở các cuộc tấn công tràn qua sông Bến Hải và từ Lào sang. Các Liên đoàn BĐQ đang hành quân dưới vùng 4, bên Campuchia và trên lãnh thổ của Quân đoàn 3 được đưa ra tham gia ngoài vùng 1 và Cao Nguyên. Các chiến sỹ Mũ Nâu đã sát cánh cùng các binh chủng giữ vững phòng tuyến.

Từ khi thành lập cho đến lúc kết thúc Binh chủng BĐQ, binh chủng của những người lính can đảm hy sinh quên mình, đã chiến đấu bảo vệ quê hương, giữ trọn vẹn màu cờ sắc áo của binh chủng. Và bổn phận chiến đấu đến hơi thơ cuối cùng cho quê hương đã được BĐQ làm tròn. Nhiều đơn vị đã chiến đấu đến chiều 30 tháng 4 năm 1975. Chính họ đã được tạp chí Le Monde của Pháp ca ngợi là "Những người lính danh dự cuối cùng của miền Nam Việt Nam".

Ozzie Nguyen
(bài viết được tổng hợp và phân tích từ nhiều nguồn tài liệu)


Tuesday, January 21, 2014

Biệt Động Quân: những người lính Mũ Nâu bất khuất

Trong bối cảnh đất nước chia đôi với sự hình thành 2 quốc gia độc lập trong đó Việt Nam Cộng Hòa (ban đầu có tên là Quốc Gia Việt Nam) quản lý từ vĩ tuyến 17 đến mũi Cà Mau, miền Bắc đã thực hiện mục đích khởi động chiến tranh xâm lược miền Nam. Cộng sản đã tổ chức lực lượng nằm vùng, len lỏi vào miền Nam Việt Nam, thực hiện các cuộc chiến tranh du kích trên các vùng nông thôn, vùng núi hiểm trở sát dãy Trường Sơn. Để ngăn chặn sự xâm nhập của CS và đối phó chiến tranh du kích, Chính phủ VNCH nhận thấy cần có những đơn vị quân đội được huấn luyện đặc biệt với các trang thiết bị phù hợp. Dưới sự tham mưu quân sự của các cố vấn Hoa Kỳ và Bộ Tổng tham mưu, Tổng thống Ngô Đình diệm đã chấp thuận cho thành lập và huấn luyện những đơn vị quyết tử và các đơn vị thám sát nhằm thực hiện các công tác bí mật và nguy hiểm. Tình hình chiến sự leo thang và ngày càng khốc liệt, chiến tranh du kích của CS ngày càng mở rộng về mặt quy mô và chiến lược ảnh hưởng tới cuộc sống của người dân, gây khó khăn và thiệt hại cho các đơn vị Bộ binh Quân lực VNCH đồn trú. Nắm được tình hình đó, ngày 15 tháng 2 năm 1960 Tổng thống Ngô Đình Diệm đã ra sắc lệnh cho các sư đoàn thành lập các Đại đội Biệt Động Quân (BĐQ) (Hoa kỳ gọi là Ranger).


Sau sắc lệnh đó có 50 đại đội đã được thành lập trong đó có 32 đại đội thành lập vào đầu tháng 3 năm 1960 thuộc các Quân khu và 18 Đại đội do các Sư đoàn điều khiển.

Liên đoàn 1 Biệt Động Quân tại tuyến La Vang cuối tháng 4 năm 1972
Nhiệm vụ của Biệt Động Quân là đối phó với chiến tranh du kích của CS trên toàn lãnh thổ VNCH. Đây là một nhiệm vụ cực kỳ khó khăn đòi hỏi các quân nhân tham gia đều phải có lòng can đảm, giàu kinh nghiệp chiến trường và có sức chịu đựng cao. Để đảm bảo  có được lực lượng hội đủ các điều kiện này, Tổng thống Ngô Đình Diệm ra lệnh chọn các cán bộ chỉ huy từ cấp Trung đội trưởng đến Đại đội trưởng đều phải là các quân nhân xuất sắc, căn bản là tự nguyện, không nhận binh sỹ quân dịch. Tháng 5 năm 1960, toán huấn luyện đặc biệt dưới quyền Đại tá William Ewald từ Liên đoàn 77 Lực lượng đặc biệt Hoa Kỳ tại Fort Bragg, North Calorina được gửi tới Việt Nam để huấn luyện cho Biệt Động Quân về chiến thuật và kỹ thuật tác chiến. Và ngày 1 tháng 7 năm 1960 đánh dấu một ngày đặc biệt: chính thức thành lập Binh chủng Biệt Động Quân VNCH dưới sự hỗ trợ của toán huấn luyện lưu động của Lực lượng đặc biệt Hoa Kỳ do Đại tá Lewis Mille chỉ huy. Song hành với việc huấn luyện là các công việc liên quan tới hoàn chỉnh tổ chức Binh chủng, soạn thảo huấn thị, huấn lệnh, chọn phù hiệu, lập bảng số. Dưới sự hỗ trợ của các Trung tâm huấn luyện và các chuyên gia huấn luyện Hoa Kỳ, lực lượng Biệt Động Quân dần dần đi vào hoạt động, việc huấn luyện cũng dần hoàn chỉnh, các Trung tâm huấn luyện ban đầu chấm dứt nhiệm vụ, việc huấn luyện được chuyển sang Trung tâm mới dành riêng đào tạo Biệt Động Quân. Trung tâm đồn trú tại Dục Mỹ nằm trên Quốc lộ 21 từ Ninh Hòa tới Ban Mê Thuột.

Năm 1964, các Tiểu đoàn 10, 20, 30 được cải danh thành Tiểu đoàn 11, 21, 31 Biệt Động Quân tương ứng với thứ tự vùng chiến thuật. Đến cuối năm 1964 đầu năm 1965 Binh chủng đã cải tổ và phát triển hoàn chỉnh và có hơn 20 Tiểu đoàn tác chiến gọi là BĐQ tiếp ứng đã cùng các đơn vị bạn như Nhảy Dù, TQLC... tham dự các trận đánh lớn lập nhiều chiến công vẻ vang trên khắp 4 vùng chiến thuật. Điển hình như Trận Bình Giã (vùng 1 CT), Đồng Xoài (vùng 3 CT) và dành nhiều huy chương cao quý. Cuộc chiến ngày càng lan rộng và khốc liệt, bởi vậy năm 1967 Bộ Tổng Tham mưu Quân lực VNCH đã quyết định phát triển và nâng lực lượng BĐQ lên mức Liên đoàn, khởi đầu là Liên đoàn 5 BĐQ tổng trừ bị cho Bộ Tổng tham mưu QL VNCH, đặc trách chiến trường bảo vệ Biệt khu Thủ Đô. Năm 1970, lực lượng BĐQ có cơ hội vươn mình lớn mạnh và khẳng định mình khi nhận thêm nhiệm vụ chặn tuyến xâm nhập địch quân từ Bắc vào Nam, dọc biên giới Việt-Lào, Việt Nam - Campuchia. Lúc này để đáp ứng nhiệm vụ mới bên cạnh 20 Tiểu đoàn BĐQ tiếp ứng, có thêm 39 Tiểu đoàn BĐQ biên phòng, tham gia hành quân ngoại biên, truy quét CSBV.

Đến năm 1971, Binh chủng BĐQ đã có 15 Liên đoàn. Mùa hè 1972, BĐQ hoàn toàn đảm trách chiến trường Bình Long - An Lộc do Tư lệnh Đại tá Nguyễn Thành Chuẩn, Chỉ huy trưởng BĐQ chỉ huy. Trong bối cảnh phải chiến đấu tự lực và đơn phương sau Hiệp định Paris, Bộ Tổng tham mưu QL VNCH quyết định thành lập Sư đoàn Biệt Động Quân. Cuối tháng 3 thành lập 2 Sư đoàn là Sư đoàn 101 do vị Tư lệnh đầu tiên và cũng là cuối cùng Đại tá Nguyễn Thành Chuẩn chỉ huy trưởng và Sư đoàn 106 do Đại tá Nguyễn Văn Lộc là Tư lệnh

Biệt Động Quân là một binh chủng biệt động cảm tử luôn dấn thân vào những mặt trận máu lửa nhất. Biệt Động Quân được sử dụng tối đa cho các cuộc hành quân trực thăng vận, vào tận sào huyệt của Cộng Sản, tung hoành khắp 4 vùng chiến thuật. Cọp con thuộc các Tiểu đoàn 41, 42, 43, 44 vang lừng khắp chiến trường; các chiến sỹ mũ nâu thuộc Tiểu đoàn 21 và 39 đã làm cho Quân lực Hoa Kỳ phải ngả mũ kính chào trước sức chiến đấu bền bỉ và dũng mãnh trong cuộc hành quân Lam Sơn 719. Riêng Tiểu đoàn 43 là đơn vị cuối cùng tự thủ tại Sài Gòn bảo vệ cho người dân trước súng đạn của kẻ thù. Biệt Động Quân mãi mãi đi vào những trang hào hùng nhất của Quân lực miền Nam ghi danh tên tuổi bất khuất Vị Quốc Vong Thân như Chuẩn tướng Trần Văn Hai, Đại tá Hồ Ngọc Cẩn....

Ozzie Nguyen

Wednesday, January 8, 2014

Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến: các vị Chỉ huy và Tư lệnh xuất sắc

1. Trung tá Lê Quang Trọng - Chỉ huy trưởng đầu tiên: ông tốt nghiệp khóa 2 Sỹ quan Đập Đá (Huế). Tháng 6 năm 1955 ông được Phủ Thủ tướng bổ nhiệm chức vụ Chỉ huy trưởng Binh Đoàn Thủy Quân Lục Chiến (TQLC). Thời kỳ đầu Binh chủng TQLC là đơn vị trực thuộc Quân chủng Hải Quân Việt Nam về cả hai phương diện Chỉ huy và Hành chính. Chỉ huy trưởng TQLC có cấp bậc Trung tá còn Tư lệnh Hải Quân Việt Nam là Hải Quân Thiếu tá Lê Quang Mỹ.





2. Thiếu tá Phạm Văn Liễu: ông đã từng hoạt động lâu dài trong các Liên Đoàn tuần giang xung kích cũng như thực tập với các đơn vị biệt kích Commando ở miền Bắc trước khi di chuyển vào Nam sau Hiệp định Geneva nên được giao phó trách nhiệm thành lập Binh chủng TQLC với Trung úy Lê Nguyên Khang phụ tá. Ngày 18 tháng 1 năm 1956 Tổng thống Ngô Đình Diệm bổ nhiệm Thiếu tá Phạm Văn Liễu làm Chỉ huy trưởng TQLC Việt Nam, vị Chỉ huy trưởng thứ 2 của Binh Chủng. Sau hơn nửa năm Bộ Tham mưu nghiên cứu và được các cố vấn Hoa Kỳ yểm trợ, ngày 21 tháng 12 năm 1956 ông đệ lên Bộ Tham mưu kế hoạch cải tổ mới: thành lập thêm một Tiểu Đoàn Bộ Binh TQLC và nâng Binh chủng thành Liên Đoàn TQLC.

3. Đại úy Bùi Phó Chí: ông học Thiếu sinh quân. Lúc còn là Trung úy đã là Đại đội trưởng Commando 13 và là một đại đội nổi danh không kém Commando Vandenberg trên chiến trường Bắc Việt. Sau khi các đơn vị Commandos giải tán được chuyển sang Quân đội VNCH, ông là Tiểu đoàn trưởng TQLC đầu tiên. Trong thời gian giữ chức vụ Tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn 1 Đổ bộ (1955-1956) ông đã chỉ huy Tiểu đoàn tham dự chiến dịch Đinh Tiên Hoàng hành quân vào Đảo Hòn Me, Hòn Sóc, Luỳnh Quỳnh ở Rạch Giá, chiến dịch Hoàng Diệu (Rừng Sát), Nguyễn Huệ (Giồng Riềng, Rạch Giá). Đầu tháng 8 năm 1956 Tổng thống Ngô Đình Diệm bổ nhiệm ông kiêm nhiệm chức vụ Xử lý Thường Vụ (XLTV) Chức vụ Liên Đoàn trưởng TQLC thay thế Thiếu tá Phạm Văn Liễu và tiếp tục giữ chức này đến ngày 1 tháng 10 năm 1956.

4. Trung tá Lê Như Hùng: ông xuất thân Khóa 1 Sỹ quan tại Đập Đá (Huế). Học Khóa Tham mưu tại Trường Tham mưu do Quân đội Pháp tổ chức tại Sài Gòn Chợ Lớn. Sau khi mãn khóa ông ở lại trường làm Huấn luyện viên. Ông được thuyên chuyển về TQLC giữ chức vụ Chỉ huy trưởng thay thế Đại úy Bùi Phó Chí đang XLTV chức vụ Chỉ huy trưởng. Năm 1956 ông và Bộ chỉ huy Liên Đoàn cùng Tiểu Đoàn 2 tham gia Chiến dịch Hồng Nhạn với Hải Quân Trung tá Lê Quang Mỹ Tư lệnh Hải Quân Việt Nam, mục đích cắm các cột mốc chủ quyền Việt Nam trên các hòn đảo ở biển Đông và Vịnh Thái Lan. Năm 1957 ông chỉ thị Phòng 5 và Phòng 3 thuộc Bộ Chỉ huy Liên Đoàn TQLC vẽ một số kiểu mẫu vải ngụy trang và phù hiệu cánh tay. Ông lựa chọn bản vẽ hình quả địa cầu có bản đồ chữ S ở giữa làm huy hiệu cho Binh chủng và vải màu xanh lá cây có vằn đen làm quân phục tác chiến. Ông rời Binh chủng TQLC tháng 4 năm 1960 bàn giao chức vụ Chỉ huy trưởng Liên Đoàn TQLC cho Thiếu tá Lê Nguyên Khang Tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn 1. Trong khi đang giữ chức vụ Tỉnh trưởng Kiến Hòa ông được thăng cấp Trung tá và được Tổng thống bổ nhiệm chức vụ Tham mưu trưởng Biệt Bộ Phủ Tổng thống. Ông là người đã đóng góp nhiều cho sự hùng mạnh của Đoàn quân Mũ Xanh.

5. Trung tướng Lê Nguyên Khang - Vị Tư lệnh đầu tiên và lâu đời nhất của TQLC: ông tốt nghiệp Khóa 1 Lê Lợi Sỹ quan Trừ bị Nam Định. Năm 1955 ông làm Đại đội trưởng Đại đội Hành quân và Công vụ TQLC. Tháng 9 năm 1957 ông là Tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn Đổ Bộ (sau đổi tên thành Tiểu Đoàn 2 Trâu Điên TQLC). Tháng 5 năm 1958 ông du học lớp Tham mưu Đổ bộ tại Trung tâm Huấn luyện TQLC Quantico Virginia Hoa Kỳ. Kết thúc khóa học ông trở về làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn 1 TQLC, sau đó được thăng cấp Thiếu tá giả định Chỉ huy trưởng Liên Đoàn TQLC. Ngày 1 tháng 3 năm 1962 ông được thăng Trung tá. Năm 1964 ông được bổ nhiệm chức vụ Tư lệnh Lữ Đoàn TQLC, đến ngày 11 tháng 8 ông được thăng chức Chuẩn tướng, 21 tháng 10 ông được vinh thăng Thiếu tướng nhiệm chức.

6. Thiếu tướng Bùi Thế Lân: ông tốt nghiệp Khóa 4 Cương Quyết Sỹ quan Trừ bị Thủ Đức, tốt nghiệp ông về làm Đại đội trưởng Tiểu Đoàn 1 TQLC, hàm Thiếu úy. Năm 1960 ông được bổ nhiệm làm Tham mưu trưởng Liên Đoàn TQLC. Ngày 1 tháng 6 năm 1961 ông được bổ nhiệm làm Tiểu Đoàn trưởng Tiểu Đoàn 4 TQLC, hàm Đại úy. Năm 1963 ông du học khóa Chỉ huy và Tham mưu  TQLC tại căn cứ TQLC Hoa Kỳ. Sau khóa học trở về ông nhận chức Tham mưu trưởng Lữ Đoàn TQLC với cấp bậc Thiếu tá. Ngày 1 tháng 11 năm 1964 ông được thăng cấp Trung tá, một năm sau được thăng lên cấp Đại tá. Năm 1971 ông được bổ nhiệm làm Tư lệnh Phó kiêm Tham mưu trưởng Sư Đoàn TQLC. Ngày 4 tháng 5 năm 1972 ông thay thế Trung tướng Lê Nguyên Khang, làm Tư lệnh Sư Đoàn TQLC. Cuối tháng 5 năm đó ông được vinh thăng Chuẩn tướng nhiệm chức. Đầu tháng 4 năm 1975 ông được vinh thăng Thiếu tướng nhiệm chức và là vị Tư lệnh cuối cùng của Sư Đoàn TQLC Quân lực VNCH.

Trải qua những năm tháng cam go ác liệt, từ ngày thành lập cho đến những phút sau cùng của cuộc chiến Đoàn quân của nhưng người lính Mũ Xanh dưới sự chỉ huy của các vị Tư lệnh xuất sắc đã luôn hoàn thành nhiệm vụ, lập nhiều chiến công hiển hách làm nên những dấu ấn trong Quân sử hào hùng của dân tộc. Dấu chân của TQLC tới đâu là ngọn cờ vàng tung bay tới đó, mảnh đất miền Nam luôn được giữ trọn bằng sức chiến đấu bền bỉ và sự hy sinh quên mình dưới lời thề Tổ Quốc.

Ozzie Nguyen
(Bài viết được tổng hợp và phân tích từ nhiều nguồn khác nhau)

Tuesday, January 7, 2014

Sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến: sử sách mãi ghi chiến công của những người lính Mũ Xanh


1. Thành lập
Ngày 15 tháng 10 năm 1954, Tổng Thống Ngô Đình Diệm ký sắc lệnh chính thức thành lập Binh chủng Thủy Quân Lục Chiến (TQLC). Ban đầu là Tiểu Đoàn 1 và Tiểu Đoàn 2 thành lập năm 1955 cùng một Bộ chỉ huy binh chủng và một đại đội pháo binh. Đến tháng 9 năm 1957 Tiểu Đoàn 3 được thành lập và đến tháng 6 năm 1959 Liên Đoàn TQLCchính thức được thành lập với 2276 quân nhân và cùng Lữ đoàn Nhảy Dù hình thành lực lượng tổng trừ bị cơ động chiến lược của Quân đội VNCH, hoạt động khắp bốn vùng chiến thuật. Đầu năm 1961 quân số tăng lên 3321 người, chia thành 4 Tiểu Đoàn và các đơn vị yểm trợ. Năm 1963 Bộ Tư lệnh Thủy Quân Lục Chiến đã thành lập để chỉ huy 2 Chiến Đoàn TQLC (gồm 5 Tiểu Đoàn) và 1 Tiểu Đoàn pháo binh, tách ra khỏi Hải Quân và trở thành một lực lượng tổng trừ bị của Quân lực VNCH.
Năm 1968 Thủy Quân Lục Chiến tham chiến trên 2 mặt trận Sài Gòn và Huế, lúc này Sư Đoàn TQLC được thành lập. Năm 1970, Sư Đoàn còn có 3 Lữ Đoàn và 9 Tiểu Đoàn Bộ Binh, 3 Tiểu Đoàn pháo binh, và một số Tiểu Đoàn yểm trợ tiếp vận với số quân trên 11000 người.


2. Hoạt động
Cuối năm 1953, Tiểu Đoàn 1 TQLC bắt đầu triển khai đối đầu với lực lượng Mặt trận Giải Phóng miền Nam Việt Nam. Năm 1960 Tổng thống Ngô Đình Diệm bổ nhiệm Đại úy Lê Nguyên Khang làm chỉ huy trưởng TQLC. Năm 1961, Tiểu Đoàn 4 được thành lập tại Vũng Tàu, cách Sài Gòn về phía Nam 60km cùng các đơn vị Hải Quân nhận nhiệm vụ truy quét Rừng U Minh. Năm 1964 đánh dấu một năm hoàn toàn thất bại của TQLC. Cuối tháng 12 năm 1964, lực lượng Mặt trận Giải Phóng chiếm Bình Giã. Các đơn vị Biệt Động Quân và TQLC được lệnh tái chiếm, Đại đội 2 TQLC rơi vào phục kích, 3 đại đội còn lại trên đường tiếp viện khi qua rừng cao su cũng bị phục kích, Tiểu Đoàn 4 mất sức chiến đấu, thương vong đến 60%.
Mùa hè năm 1970 TQLC được điều động tới phía Bắc tỉnh Quảng Trị. Năm 1971, TQLC tiến hành chiến dịch ở cấp Sư Đoàn, trong chiến dịch Lam Sơn 719 với mục tiêu cắt đứt đường mòn Hồ Chí Minh tại Tchepone, Lào. Ngày 18 tháng 3 năm 1971, TQLC từ căn cứ hỏa lực Delta lần đầu tiên chạm trán Cộng sản Bắc Việt. Ngày 21 tháng 3 năm 1971 TQLC bị vây hãm ở Delta và phải phá vây rút lui về biên giới Việt Nam.
Tháng 3 năm 1975, TQLC đã bố trí lực lượng ở phía Nam Quảng Trị để phối hợp phòng thủ Đà Nẵng. Đến tháng 4 năm 1975, các đơn vị Quân lực VNCH đóng tại Đà Nẵng bắt đầu tan rã, chỉ còn Lữ Đoàn TQLC còn giữ được hàng ngũ.


3. Những chiến công hiển hách.

Chiến thắng Đầm Dơi của Tiểu Đoàn 2 là chiến thắng lớn nhất của Quân lực VNCH năm 1963. Ngày 31 tháng 12 năm 1964 Tiểu Đoàn 4 tham gia trận Bình Giã gây cho Cộng sản nhiều tổn thất nhưng cũng thiệt hại nặng. Ngay 8 tháng 4 năm 1965 chiến thắng Phụng Dư, Bình Định, Tiểu Đoàn 2 đánh tan một Trung Đoàn Sao Vàng và được Tổng thống Ngô Đình Diệm ân thưởng Đệ Tứ Đẳng bảo Quốc Huân Chương kèm theo Anh Dũng Bội Tinh.

Tết Mậu Thân 1968, tất cả các Tiểu Đoàn đều lập nhiều chiến công. Tiểu Đoàn 6 đánh tan Cộng sản ở khu Bình Hòa, Tiểu Đoàn 2 tiêu diệt hầu hết những đơn vị xâm nhập vào những nơi trọng yếu tại Đô thành. Tháng 7 năm 1970 Lữ Đoàn 369 hành quân giải tỏa áp lực địch trên Quốc lộ 4 từ Nam Vang đi Hải Cảng Sihanouk Ville. Tiểu Đoàn 8 và Tiểu Đoàn 9 đã hoàn thành nhiệm vụ sau những cuộc đọ súng ác liệt trên vùng đồi núi 2 bên quốc lộ.
Tiểu đoàn 4 Kình Ngư
Đầu năm 1971, Bộ Tư lệnh Sư Đoàn tham dự hành quân Lam Sơn 719. Đầu tháng 10 năm 1971, Tiểu Đoàn 9 TQLC dưới quyền chỉ huy của Trung tá Phạm Văn Chung Lữ đoàn trưởng Lữ Đoàn 369 tăng phái cho Sư Đoàn 1 Bộ Binh và tham dự Hành quân Lam Sơn 810, được trao nhiệm vụ tái chiếm căn cứ Hoa Kỳ có tên là "Động Cù - Mông".


Chiến thắng Thành cổ Đinh Công Tráng
Đầu tháng 4 năm 1972, Lữ Đoàn 258 lập chiến công lớn trong dịp lễ Phục sinh, trận đánh với Bộ Binh và chiến xa Bắc Việt ở Pedro và Ái Tử của Lữ Đoàn 258. Đầu tháng 5 năm 1972 Lữ Đoàn 369 do Đại tá Phạm Văn Chung chỉ huy các Tiểu Đoàn 2, Tiểu Đoàn 5 và Tiểu Đoàn 9 đã giữ vững tuyến Mỹ Chánh, ngăn chặn lực lượng hùng hậu của Cộng sản Bắc Việt có ý định tiến đánh Huế.

Ngày 28 tháng 6 năm 1972, Hành quân tái chiếm Quảng Trị ở cấp Sư Đoàn. Quảng Trị mãi ghi danh những người lính của Sư Đoàn TQLC. Trong tác phẩm Mùa hè đỏ lửa, nhà văn Phan Nhật Nam đã viết: " Người đời sau nói đến Quảng Trị không thể nào không nhắc đến Binh đoàn TQLC với những người lính Mũ Xanh anh dũng đã làm tròn nhiệm vụ được giao phó."".

Sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến:  một trong những đơn vị oai hùng trên tất cả mặt trận khắp 4 vùng chiến thuật và ngoại biên. Lịch sử Quân lực Miền Nam mãi mãi ghi nhớ chiến công của Thủy Quân Lục Chiến tại Đầm Dơi (An Xuyên), Huế, Quốc lộ 9 và đặc biệt là Thành Cổ Đinh Công Tráng (Quảng Trị)...

Ozzie Nguyen
(Bài viết được tổng hợp và phân tích từ nhiều nguồn khác nhau)